Bài viết Binh biến Đô Lương: Nguyên nhân, diễn biến và kết quả? được Luật Gia Bùi tổng hợp và điều chỉnh chính xác thông tin và đăng tải lại trên website. Nếu bạn có bất cứ nhu cầu cần tư vấn về Luật, hãy liên hệ với dịch vụ tư vấn pháp luật của chúng tôi.
1. Nguyên nhân Binh biến Đô Lương:
1. Nguyên nhân Binh biến Đô Lương:
Do chính sách người Pháp đưa lính Việt ở Nghệ An sang Lào đánh nhau với quân Xiêm. Gây thiệt hại nghiêm trọng cho đồng bào ta.
Trước phong trào khởi nghĩa năm 1940 đang diễn ra mạnh mẽ, bộ đội Việt Nam đã bí mật chấp thuận nổi dậy chống quân Pháp.
2. Diễn biến Binh biến Đô Lương:
Người cầm đầu cuộc nổi dậy Đô Lương là ông Nguyễn Văn Cung, quê ở huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh. Năm 1926, Nguyễn Văn Cung bị bắt đi lính khố xanh, đóng quân ở pháo đài Biệt Sơn, Thanh Hóa.
Từ năm 1930 đến năm 1931, nhằm trấn áp chế độ chuyên chế Xô Viết – Nghệ Tĩnh, đơn vị của Nguyễn Văn Cung được điều chỉnh đóng quân tại mỏ đồng Kim Nhân, huyện Anh Sơn. Sau phong trào, Đội Cung đóng quân ở Vinh để bảo vệ nội thành của thực dân Pháp.
Ngày 1/8/1941, Nguyễn Văn Cung được bổ nhiệm làm đại úy thay cho đại úy người Pháp đang đóng quân ở pháo đài Chợ Răng. Ông chịu trách nhiệm quản lý 2 huyện Thanh Chương và Đô Lương. Sau Nhâm Chúc, Nguyễn Văn Cung nhân cơ hội, kéo quân về Đồ Lương Kiệm và tuyên bố nổi dậy.
Tối ngày 13/1/1941, Đội Cung tập hợp binh lính và chuẩn bị tiến hành khởi động trước. Ông tuyên bố khởi nghĩa và giao nhiệm vụ cho binh sĩ.
Đội Cung cắt đứt mọi đường dây liên lạc qua đường bưu điện, giải mã điện thoại, điện báo ở Đô Lương, sau đó chia làm hai nhóm. Nhóm 1 do Đồi Cung chỉ huy sẽ giết chết đồng đội Bạch. Nhóm 2 quyết tâm giết thủ lĩnh Rosai.
Ngày 14/1/1941, toàn thể nghĩa quân tập trung trước cổng trường Quốc Học Vinh. Đội cung phân công quân tiến lên, Cai Vi dẫn quân về phía sau thành chờ đợi. Những người còn lại Đội Cung và Cái A cầm ô xông thẳng vào kinh thành.
Tình hình bất lợi, Team Bow chưa kịp phản ứng, đành phải bỏ tường lửa ra bên ngoài. Sau lưng Cai dẫn người theo chủ nghĩa hòa bình trốn vào chùa Dic. Thực dân Pháp tổ chức săn bắn khắp nơi trong và ngoài Vinh và bắt được toàn bộ binh lính.
Còn Cai A, sau khi bị bắt đã không chịu đầu thú, không chịu khai báo. Ông tự sát để bảo vệ lòng trung thành và lòng yêu nước của người lính biểu tình.
Đội Cung sau khi trốn thoát đã ẩn sâu trong hang núi. Ngày 2/11/1941, Đội Cung quay lại vùng ngoại thành để nắm bắt tình hình. Anh bị bắt khi vừa bước vào nhà Tống Gia Liêm, khu vực bị kẻ phản bội nhốt chặt.
Ngày 20/2/1941 tại Hà Nội, thực dân Pháp mở tòa án xét xử binh sĩ tham gia chiến tranh lật đổ Đô Lương. Đội Cung và 10 đồng đội đã kết thúc án tử hình. Và 12 người bị kết án chung thân, 2 người bị kết án sai 20 năm tù, 7 người bị kết án 15 năm tù và một người bị kết án 12 năm tù.
Ngày 25/4/1941, thực dân Pháp thi hành án tử hình Đội Cung và nghĩa quân tại ba địa điểm: Vinh, Chợ Răng và Đô Lương.
3. Kết quả Binh biến Đô Lương:
Tất cả binh lính trong cuộc nổi dậy đều bị bắt. Đội Cung cùng với 10 đồng đội của mình bị xử tử, nhiều người bị cầm tù và lao động khổ sai.
Cuộc chiến lật đổ Đô Lương là một hành động yêu nước của những người lính Việt Nam trong quân đội Pháp. Giống như các cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn và Nam Kỳ, cuộc chiến lật đổ Đô Lương nổ ra khi địch còn mạnh. Năng lực khởi động không được chuẩn bị bằng kỹ thuật kép nên tất cả đều dẫn đến thất bại.
Tuy nhiên, những sự kiện hoành tráng này đã có ảnh hưởng rộng khắp cả nước. Sự thay đổi Đô Lương đã khơi dậy tinh thần anh hùng bất khuất của nhân dân ta và giáng những đòn mạnh mẽ vào thực dân Pháp. Và cảnh báo phát hiện Nhật Bản khi bạn mới đặt chân đến đất nước chúng tôi.
Đây là một trong những khẩu súng báo hiệu cuộc khởi nghĩa toàn quốc sau này. Đó là bước đầu của cuộc đấu tranh vũ trang của dân tộc Đông Dương.
4. Ý nghĩa Binh biến Đô Lương:
Cuộc chiến đã thể hiện lòng yêu nước của những người lính Việt Nam trong quân đội Pháp. Nguyên nhân vụ phóng thất bại là do quân thù quá mạnh, năng lực cách mạng của ta chưa được chuẩn bị đầy đủ.
Tuy nhiên, cuộc khởi nghĩa Đô Lương vẫn có những ý nghĩa to lớn như:
– Nêu cao tinh thần anh hùng, kiên cường và bất khuất của dân tộc Việt Nam.
– Là tiếng súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc. Đó là bước đầu trong cuộc đấu tranh bằng vũ lực của nhân dân Đông Dương.
– Cuộc cách mạng này đã để lại cho Đảng ta những bài học, kinh nghiệm quý báu. Để bình thường hóa năng lượng và xác định cuộc cách mạng cơ bản theo thời gian. Phục vụ cho việc lãnh đạo cuộc nổi dậy tháng Tám.
5. Tóm tắt khởi nghĩa Bắc Sơn, khởi nghĩa Nam Kì và binh biến Đô Lương:
5.1. Tóm tắt khởi nghĩa Bắc Sơn:
– Nguyên nhân: Nhật Bản có kế hoạch sử dụng Đông Dương. Ngày 22/9/1940, quân Nhật đổ bộ lên Đồ Sơn (Hải Phòng) và quân Pháp bị hỏng thiết bị nặng, phải rút về Bắc Sơn.
– Diễn biến: Tháng 9 năm 1940, nhân dân Bắc Sơn nổi dậy chống Pháp, giành được chính quyền địa phương, thành lập đội du kích Bắc Sơn. Cuối cùng Pháp kết liễu Nhật, ta khủng bố khởi nghĩa.
– Ý nghĩa: Mở đầu phong trào vũ trang giải phóng dân tộc. Giúp Đảng rút ra những bài học quý giá về khởi nghiệp, lựa chọn thời cơ khởi nghiệp.
Tình hình Việt Nam những năm 1939-1945
– Tình hình chính trị:
* Thế giới
– Đầu tháng 9 năm 1939, Thế chiến thứ hai bùng nổ. Chính phủ Pháp đầu hàng Đức.
– Pháp thực hiện chính sách thù địch với chính quyền tiến bộ trong nước và phong trào cách mạng ở địa phương.
* Ấn-Trung
– Tháng 6 năm 1940, Đô đốc G. Decu được bầu làm Toàn quyền, thực hiện hàng loạt chính sách kích thích sức mạnh, thế lực của đất nước để tham chiến.
– Tháng 9 năm 1940, Nhật vượt biên giới Việt – Trung vào Bắc Việt, Pháp nhanh chóng đầu hàng.
– Nhật Bản giữ lại bộ máy quý giá của Pháp để trải nghiệm kinh tế, phục vụ chiến tranh và phát triển các ứng dụng mạng
* Việt Nam
– Đặt dưới giá trị Nhật – Pháp.
– Nhật Bản và tay sai đã ra sức tuyên truyền nền văn minh Nhật Bản, thuyết Đại Đông Á và đặt mục tiêu liên kết với Pháp trong tương lai.
– Năm 1945, việc phân phối của Đức thất bại nặng nề (Châu Âu), Nhật Bản thua lỗ nhiều nơi (Châu Á – Thái Bình Dương)
– Ở Đông Dương, ngày 3/9/1945, Nhật lật đổ Pháp. Tận dụng cơ hội đó, các phe phái chính trị ở Việt Nam tăng cường hoạt động; Đông đảo người dân sôi động, sẵn sàng khởi công.
– Tình hình kinh tế – xã hội:
* Về kinh tế:
– Thực dân Pháp: đẩy mạnh chính sách bóc lột tối đa Đông Dương, thực hiện chính sách kinh tế chỉ huy, tăng thuế cũ, áp thuế mới, giảm lương, sa thải công nhân…
– Kiềm hóa Nhật Bản: Buộc Pháp cung cấp nguyên liệu cho Nhật Bản với giá rẻ; Ruộng đất của nông dân, buộc nông dân phải trồng lúa, ngô để trồng bông, đay, chảo dầu; đầu tư vào các ngành phục vụ quân sự như khai thác mangan, sắt…
* Xã hội:
– Chính sách thám hiểm, bóc lột của Pháp – Nhật đã đẩy nhân dân ta vào tình thế bấp bênh. Kết quả là từ cuối năm 1944 đến đầu năm 1945, gần 2 triệu đồng bào ta chết đói.
– Mọi tầng lớp, tầng lớp ở nước ta đều bị ảnh hưởng bởi chính sách bóc lột của Pháp, Nhật, dân tộc bị lừa gạt hơn bao giờ hết.
5.2. Tóm tắt Khởi nghĩa Nam Kì:
Trước tình hình người dân đang sôi sục và chiến tranh Pháp – Thái sắp nổ ra. Tháng 7 năm 1940, Khu ủy Nam Kỳ được mở rộng và thông qua đề cương tổng khởi nghĩa được soạn thảo chung.
Sau khi nghe đồng chí Phan Đăng Lưu trình bày báo cáo xuất ngũ về tình hình chuẩn bị khởi động. Hội nghị Trung ương xác định điều kiện khởi đầu chưa chín muồi. Từ đó đến nay đề nghị của Đảng ủy Nam Kỳ không hề được đưa ra. Trung ương cử đồng chí Phan Đăng Lưu về khởi nghĩa
Ngày 22/10/1940, khi về Sài Gòn, đồng chí Phan Đăng Lưu bị bắt. Khi đó lệnh phóng đã được phát đi khắp nơi và không thể phục hồi được.
Tối 22/11/1940, đồng chí Tạ Uyên thay thế đồng chí Võ Văn Tấn bị bắt cách đây mấy tháng. Đế quốc cấm các chiến binh và hoàng tử Việt Nam mang theo vũ khí.
Đêm 22 rạng 23 tháng 11 năm 1940, cuộc khởi nghĩa nổ ra với sức mạnh và quy mô chưa từng có. Cờ đỏ sao vàng và cờ đỏ chuông liềm được kéo lên trước cửa chính quyền cách mạng.
Cờ đỏ sao vàng tỏa sáng rực rỡ trên các cánh đồng vùng đồng bằng. Mạng phản hồi như thế nào đã được thực hiện. Ruộng lúa của bọn địa chủ phản động được chia cho người nghèo.
Thực dân Pháp đã áp dụng một cách điên cuồng và quan trọng là đã tiêu diệt chính quyền cách mạng. Máy bay của chúng thả bom xuống làng, thôn. Cùng với quần chúng, quân Nam Kỳ chiến đấu anh dũng.
Tại Hóc Môn, cách Sài Gòn 20km, dưới sự chỉ huy của đồng chí Mười Đen, du kích đã phong tỏa thư viện độc lập ở Cầu Bông. Và giết chết tên Ac-Nôn của tỉnh Tây Ninh và một số binh lính.
Ngày 12/4/1940, quân đội dùng thủy quân lục chiến và không quân tấn công Mỹ Tho. Nhưng phải đến ngày 14/1/1941 chúng mới chiếm lại và đưa du kích vào Đồng Tháp Mười.
Tháng 12/1940, Đảng bộ miền Nam mở cuộc tranh cử ở Ba Quế (Gia Định) và quyết định rút lui để tránh thất bại. Và cung cấp năng lượng xây dựng chung cư tại U Minh, Đồng Tháp Mười.
Liên hệ dịch vụ luật chuyên nghiệp – Luật Gia Bùi
CÔNG TY TNHH LUẬT GIA BÙI
Địa chỉ: Số 2, ngách 1, ngõ 243 Trung Văn, P Trung Văn, Nam Từ Liêm, Hà Nội
Hotline: 0971106895
Nguồn: https://luatduonggia.vn/binh-bien-do-luong-nguyen-nhan-dien-bien-va-ket-qua/