Bài viết So sánh Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long được Luật Gia Bùi tổng hợp và điều chỉnh chính xác thông tin và đăng tải lại trên website. Nếu bạn có bất cứ nhu cầu cần tư vấn về Luật, hãy liên hệ với dịch vụ tư vấn pháp luật của chúng tôi.
1. Đồng bằng là gì?
Đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long là hai đồng bằng lớn nhất nước ta. Vậy giữa Đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long có điểm gì giống và khác nhau. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu qua bài viết dưới đây:
1. Đồng bằng là gì?
Trong địa lý học, vùng đồng bằng hay bình nguyên là một vùng đất đai rộng lớn với địa hình tương đối thấp – nghĩa là nó tương đối bằng phẳng, với độ cao so với mực nước biển không quá 500 m và độ dốc không quá 5°. Khi độ cao không quá 200 m, người ta gọi nó là đồng bằng thấp, còn khi độ cao từ 200 m tới 500 m, gọi là đồng bằng cao.
Các đồng bằng nguyên mẫu cho đồng bằng thường được coi là các đồng cỏ (đồng cỏ Bắc Mỹ và đồng cỏ châu Âu). Tuy nhiên, các đồng bằng trong trạng thái tự nhiên cũng có thể được che phủ bằng các dạng cây bụi, đồng rừng hay rừng, hoặc thảm thực vật có thể thiếu vắng trong trường hợp các đồng bằng cát hay đá tại các sa mạc.
Các vùng bị che phủ hoàn toàn và vĩnh cửu như các đầm lầy các vùng đất trũng lòng chảo (playa) hay các dải băng là các vùng đất bằng mà thuật ngữ đồng bằng không hay ít được sử dụng.
Đôi khi, các đồng bằng xuất hiện như là các vùng đất thấp ở vùng đáy các thung lũng nhưng cũng có trên các cao nguyên ở độ cao khá lớn. Chúng có thể được hình thành từ dung nham chảy xuống, băng và gió, trầm lắng bởi nước (suối, sông hay biển), hay bởi xói mòn dưới các tác động của các yếu tố này từ các sườn đồi, núi.
Các vùng đồng bằng tại nhiều khu vực là quan trọng cho phát triển nông nghiệp, bởi khi đất được bồi tích như là các trầm tích thì độ sâu của nó có thể khá lớn và độ màu mỡ là khá cao, cũng như độ bằng phẳng cao thuận lợi cho quá trình cơ giới hóa sản xuất; hay tại các đồng bằng có thể có các đồng cỏ cung cấp thức ăn cho gia súc.
2. Khái quát về vùng đồng bằng sông Hồng:
Đồng bằng sông Hồng (hay Châu thổ Bắc bộ) là khu vực hạ lưu sông Hồng và sông Thái Bình thuộc Bắc Bộ Việt Nam. Đồng bằng sông Hồng bao gồm 11 tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Hưng Yên, Thái Bình, Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình và Quảng Ninh. Đây là vùng có mật độ dân số cao nhất Việt Nam (1.450 người/km², dân số là 21.848.913 người).
Đồng bằng sông hồng có diện tích 15 nghìn km2 và có địa hình cao ở phía tây và tây bắc và thấp dần ra biển.
Đồng bằng sông hồng là đồng bằng bồi tụ phù sa của hệ thống sông Hồng và hệ thống sông Thái Bình, được con người khai thác lâu đời. Bề mặt của đồng bằng bị chia cắt thành nhiều ô. Do có đê nên phần trong đê là các khu ruộng cao bạc màu và các ô trũng ngập nước, vùng ngoài đê được phù sa bồi đắp hàng năm.
3. Khái quát về vùng đồng bằng sông Cửu Long:
Vùng đồng bằng sông Cửu Long (còn được gọi là Vùng đồng bằng Nam Bộ, Vùng Tây Nam Bộ, Cửu Long, Lục Tỉnh hoặc Miền Tây) là vùng cực nam của Việt Nam, một trong hai phần của Nam Bộ. Khu vực này có 1 thành phố trực thuộc Trung ương là TP. Cần Thơ và 12 tỉnh: Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Hậu Giang, Sóc Trăng, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu và Cà Mau. Đồng bằng sông Cửu Long có tổng dân số là 17.300.947 người (2021).
Diện tích của đồng bằng sông Cửu Long là 40 nghìn km2, địa hình thấp, bằng phẳng hơn so với đồng bằng sông Hồng. Cũng giống như đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cưu Long cũng được bồi đắp bởi những con sông; Cụ thể là bồi tụ phù sa của sông Tiền, sông Hậu nhưng vẫn còn các vùng trũng như Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên.
Đồng bằng sông Cửu Long có mạng lưới sông, kênh chằng chịt. Mùa lũ nước ngập trên diện rộng, mùa cạn thì nước triều lấn mạnh làm 2/3 diện tích đồng bằng là đất phèn, đất mặn.
4. So sánh Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long:
4.1 Giống nhau:
Đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long đều là những đồng bằng châu thổ lớn của nước ta.
Về sự hình thành thì cả hai đông bằng đều do phù sa sông bồi tụ dần trên vịnh biển nông và thềm lục địa mở rộng; Cụ thể đồng bằng sông Hồng do sông Hồng còn đồng bằng sông Cửu Long do sông Cửu Long bồi đắp phù sa hàng năm.
Về địa hình của hai đồng bằng thì đều tương đối bằng phẳng thuận lợi cho hoạt động sản xuất; Đặc biệt là sản xuất nông nghiệp.
Về loại đất thì cả hai đồng bằng đều có đất phù sa màu mỡ, thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp.
4.2 Khác nhau:
Đặc điểm | Đồng bằng sông Hồng | Đồng bằng sông Cửu Long |
Diện tích | Khoảng 15.000 km2. | Khoảng 40.000 km2 |
Nguồn gốc phát sinh | Do phù sa của hệ thống sông Hồng và hệ thống sông Thái Bình bồi tụ. | Do hệ thống sông Cửu Long bồi tụ. |
Địa hình | – Được con người khai thác từ lâu và làm biến đổi mạnh. – Cao ở rìa phía tây và tây bắc, thấp dần ra biển. – Bề mặt bị chia cắt thành nhiều ô. – Có hệ thống đê ven sông ngăn lũ. |
– Thấp và bằng phẳng hơn. – Không có đê nhưng có hệ thống sông ngòi , kênh rạch chằng chịt. – Có các vùng trũng lớn chưa được bồi đắp xong: Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên. |
Đất đai | – Vùng trong đê không còn được bồi tụ phù sa, đất bạc màu hoặc ngập nước. – Vùng ngoài đê được bồi tụ phù sa hàng năm. |
– Mùa lũ: nước sông dâng cao, bồi tụ phù sa. – Mùa cạn: nước triều lấn mạnh, gần 2/3 diện tích là đất mặn, đất phèn. |
5. Thuận lợi và khó khăn của đồng bằng sông Hồng trong phát triển kinh tế:
Những thuận lợi:
– Vị trí địa lý dễ dàng cho giao lưu kinh tế với các vùng, dân cư đông, nguồn lao động dồi dào, phong cảnh đẹp, đa dạng phù hợp cho phát triển du lịch.
– Đất phù sa chiếm diện tích lớn, màu mỡ là tài nguyên quý giá nhất của vùng, phân bố trên nền địa hình bằng phẳng. Khí hậu nhiệt đới ẩm, có mùa mưa nên nguồn nước dồi dào thuận lợi cho cho gia tăng trong sản xuất nông nghiệp như trồng lúa nước có thêm một vụ thu đông, …
– Có một mùa đông lạnh phù hợp để phát triển rau màu ưa lạnh như bắp cải, cà chua, … mà không cần vận chuyển từ vùng lạnh như Đà lạt về để sử dụng.
– Khoáng sản không phong phú nhưng có giá trị là các mỏ đá (Hải Phòng, Hà Nam, Ninh Bình), sét cao lanh (Hải Dương), than nâu (Hưng Yên), khí tự nhiên (Thái Bình). Thuận lợi để phát triển các ngành công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, khai thác khí tự nhiên.
– Nguồn nước dồi dào của sông Hồng, nước khoáng và vùng biển rộng lớn phía Đông Nam. Đã cung cấp nước cho sản xuất sinh hoạt, đánh bắt nuôi trồng thủy sản, giao thông vận tải biển…
– Tài nguyên biển đang được khai thác hiệu quả nhờ vào phát triển nuôi trồng, đánh bắt thủy sản, du lịch.
Những khó khăn:
– Địa hình thấp, có nhiều ô trũng, mùa mưa dễ gây ngập lụt kéo dài và cuốn trôi hoa màu;
– Đất phía trong đê không được bồi đắp thường xuyên và đang dần thoái hóa, rìa đồng bằng đất bạc màu;
– Phải chịu ảnh hưởng của gió mùa đông bắc với những đợt giá rét, khí hậu nhiệt đới ẩm dễ phát sinh dịch bệnh như sốt xuất huyết và khó khăn trong bảo dưỡng máy mọc thiết bị sản xuất;
– Nguồn tài nguyên trong khu vực hạn chế, phần lớn phải nhập khẩu nguyên nhiên liệu từ các vùng khác về.
6. Thuận lợi và khó khăn của đồng bằng sông Cửu Long trong phát triển kinh tế:
Những thuận lợi:
– Về đất: Là nơi có diện tích đất nông nghiệp lớn nhất so với các vùng khác, hàng năm được phù sa sông Cửu Long bồi đắp, phù sa màu mỡ.
– Về khí hậu: Nóng quanh năm, ít chịu tai biến do khí hậu gây ra, thuận lợi cho việc trồng trọt nhất là lúa.
– Về sông ngòi: Có hệ thống dông Mê Công với lượng nước dồi dào, kênh rạch chằng chịt, đó là nguồn cung cấp để thay chua, rửa mặt, cung cấp thủy sản và phát triển giao thông đường thủy.
– Có nhiều rừng ngập mặn và rừng tràm, có nhiều loài chim thú thuận lợi cho phát triển các khu du lịch sinh thái…
– Động vật biển: Có hàng trăm bãi cá với nhiều thủy sản quý hiếm chiếm khoảng 54% trữ lượng cá biển của cả nước thuận lợi cho hoạt động đánh bắt thuỷ sản, phát triển ngư nghiệp.
– Khoáng sản: Chủ yếu là than bùn, vật liệu xây dựng, dầu khí. Tạo điều kiện phát triển ngành công nghiệp khai thác khoáng sản.
Những khó khăn:
– Đất phèn và mặn chiếm quá nữa diện tích đất (2,5 triệu ha) hạn chế trồng cây lương thực ngắn ngày.
– Mùa khô sâu sắc kéo dài, thêm vào đó là sự xâm nhập sâu vào đất liền, của nước mặn làm cho tính chất chua mặn của đất ngày càng cao gây khó khăn cho phát triển nông nghiệp.
– Lũ hàng năm gây thiệt hại về người và của cải.
Giải pháp:
Để giảm thiểu những hạn chế đối với đồng bằng sông Cửu Long chung ta có thể thực hiện một số các giải pháp sau đây:
Thứ nhất, Cải tạo và sử dụng đất phèn đất mặn .
Thứ hai, Tăng cường hệ thống thủy lợi, đắp đê xây nhà vùng cao, nhà nổi để cùng sống với lũ.
Thứ ba, Tìm các biện pháp thoát lũ, kết hợp với lợi thế khai thác lũ sông Mê Công để khai thác lợi thế do lũ mang lại.
7. Các đồng bằng ở nước ta:
Đi từ Bắc xuống Nam, Việt Nam có các đồng bằng sau:
– Đồng bằng sông Hồng.
– Đồng bằng Thanh Hóa.
– Đồng bằng Nghệ Tĩnh.
– Đồng bằng Quảng Bình.
– Đồng bằng Quảng Trị
– Đồng bằng Thừa Thiên.
– Đồng bằng Quảng Nam.
– Đồng bằng Quảng Ngãi.
– Đồng bằng An Khê.
– Đồng bằng Bình Định, Phú Yên.
– Đồng bằng Khánh Hòa.
– Đồng bằng Ninh Thuận.
– Đồng bằng Bình Thuận.
– Đồng bằng sông Cửu Long.
Trong các đồng bằng nói trên chỉ có hai đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long là đồng bằng châu thổ, và đồng bằng An Khê là một trũng giữa núi (thung lũng), còn lại là các đồng bằng duyên hải.
Các đồng bằng từ Thanh Hóa đến Bình Thuận (ngoại trừ đồng bằng An Khê) được gọi chung là đồng bằng duyên hải miền Trung hay đồng bằng ven biển miền Trung.
Nguồn: https://luatduonggia.vn/so-sanh-dong-bang-song-hong-va-dong-bang-song-cuu-long/